Xóm 9, thôn Hạ Am, xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
Xóm 9, thôn Hạ Am, xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
Những nghệ sĩ luôn gìn giữ, trân trọng múa rối nước vì sự đam mê, tình yêu với nghệ thuật dân gian. Gọi múa rối nước là môn nghệ thuật của cuộc sống thường nhật, gắn múa rối nước với những ngôn từ giản dị nhất chẳng sai bởi múa rối nước vốn sinh ra từ sống, tồn tại trong đời sống con người Bắc Bộ suốt bao đời nay. Những người nghệ sĩ biểu diễn rối nước, gọi họ là nghệ nhân cũng được, có khi gọi họ là những người nông dân cũng đúng. Cứ bao nhiêu đời cứ tiếp diễn truyền nối cho nhau và phát huy nghề tổ thành thú chơi tao nhã.
Và sau những tràng pháo tay trầm trồ của khán giả, sau bức rèm kia, sau những người nghệ nhân đang trầm mình dưới nước ấy là biết bao khổ luyện, cay đắng.
Nếu diễn viên sân khấu, người nghệ sĩ có thể dùng hình thể của mình để làm nhân vật, nhưng với múa rối nước, họ phải học qua tất cả các bộ môn khác nhau như hát, múa, kịch,... bằng hình thể của mình. Sau đó với những tình cảm và kỹ năng đã tập luyện bằng cơ thể của mình, mình mới truyền tải sang nhân vật con rối. Có như vậy, nghệ sĩ mới thực sự thấu hiểu phần hồn của một vở diễn rối, để điều khiển… Vì vậy, diễn viên múa rối phải tập luyện với hơn 100% công suất để chạm đến trái tim của khán giả, để khiến khán giá cùng đồng điệu và cảm nhận nội dung vở diễn.
Không chỉ ý chí, múa rối nước cũng là bộ môn nghệ thuật thử thách sức khoẻ của người nghệ sĩ. Những con rối có sức nặng nhất định, hơn nữa trong môi trường dưới nước thì lực cản của nước cũng gây khó khăn cho việc điều khiển con rối. Vào mùa lạnh, nghệ nhân phải ngâm mình trong bể nước nhiều giờ liền. Hơn nữa, nước đạt tiêu chuẩn trong bể chứa không được ấm nóng, vì sẽ làm hơi nước bốc lên làm thân nhiệt nghệ sĩ tăng cao, còn có thể gây thiếu oxy.
Có những lúc nhiệt độ xuống thấp vài độ hay thậm chí âm độ trong các chuyến lưu diễn nước ngoài, người nghệ sĩ vẫn phải ngâm mình trong bể nước lạnh giá. Để khắc phục, họ sẽ dán miếng giữ nhiệt, mặc quần áo ngăn thấm nước và đi rất nhiều tất. Có khi lạnh quá, phải uống cả nước mắm để cho ấm người.
Tuy vậy, không thể tránh khỏi các sự cố, như là ào nước vào trong quần. Không thể bỏ tiết mục ở đó, họ vẫn tiếp tục hoàn thành công việc và chỉ ở phía sau tấm rèm, các nghệ sĩ sẽ tự biết với nhau.
Tuy vậy, những người nghệ sĩ họ vẫn luôn tự hào khi được giới thiệu nét đẹp văn hoá đậm đà bản sắc Việt Nam, chỉ duy nhất Việt Nam mới có - đó là múa rối nước. Dù trong suốt chương trình, khán giả đều chẳng nhìn thấy gương mặt người nghệ sĩ, chỉ khi kết thúc chương trình, họ mới trở ra tấm rèm để chào khán giả. Nhưng vài phút giây ngắn ngủi ấy cũng đủ để trao gửi tình cảm của khán giả cho nghệ sĩ, và ngược lại.
Đó chính là động lực để những người yêu nghề múa rối theo đuổi đam mê và cống hiến hết mình để theo đuổi nghệ thuật múa rối. Chẳng dừng lại trên Thuỷ đình cổ kính của làng mình, họ đi biểu diễn khắp dọc dài đất nước, sang châu Âu, châu Á…
Là một trong những loại hình nghệ thuật truyền thống phản ánh đời sống tinh thần và bề dày lịch sử của nhân dân Việt Nam, múa rối nước chứa đựng những giá trị cao về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử của dân tộc Việt.
Múa rối nước là bức tranh phản ánh đời sống tâm linh khi sử dụng những nhân vật linh thiêng luôn luôn đem lại bình an trong cuộc sống như long ly quy phượng, cô tiên, hay có các hoạt động cúng bái trong các vở diễn. Tâm linh là yếu tố gắn bó và là một phần trong cuộc sống con người dân tộc Việt Nam, khi những người nông dân luôn cầu mong những mùa màng tốt, những vụ bội thu, thể hiện những khát vọng và ước mơ về cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân vùng châu thổ sông Hồng. Bằng tư duy lãng mạn - dân gian, các nghệ nhân vẽ lên những thế giới hòa bình, tự do riêng cho những nhân vật, không có quyền lực của vua chúa, không có giáo huấn.
Giá trị nghệ thuật của múa rối nước được khắc họa rõ nét qua bố cục, đường nét, màu sắc, âm thanh, nhịp điệu bằng những tác phẩm công phu, những con rối tinh xảo, kĩ năng điều khiển điêu luyện, sự kết hợp hài hòa giữa sân khấu nước, ánh sáng và âm nhạc… Múa rối nước là tổng hợp của các môn nghệ thuật sân khấu: hát chèo, kịch nói, kỹ năng rối,...
Trên sân khấu, quân rối - một tạo hình độc đáo - tái hiện những gì thường gặp nơi xóm làng, đồng ruộng. Ngôn ngữ trong rối nước không hề cao sang mà mang chất đời, có sử dụng tục ngữ, ca dao, dân ca, đôi khi kết hợp với văn học trong sự kết hợp của hành động như ca, múa, nhạc, diễn, hề…
Nghệ thuật của rối nước còn được thể hiện qua “bí truyền”, rằng múa rối nước chỉ học được qua sự hướng dẫn, truyền lại từ thế hệ trước tới thế hệ sau những giá trị quý báu, những kĩ thuật tinh tế mà không thể ghi chép lại trong sách vở. Chính vì vậy, mỗi địa phương lại có những dấu ấn riêng, kĩ thuật riêng, tạo nên sự đa dạng trong nghệ thuật rối nước. Đó là trí tuệ, sự thông minh và sức sáng tạo của con người Việt Nam.
Theo dân gian, không gian tự nhiên của rối nước gắn liền với thủy đình ngói đỏ cong cong, với ánh sáng thực của mây trời in trong đáy nước, của gió lao xao gợn nước lăn tăn từng đợt. Có lẽ chẳng có nghệ thuật biểu diễn nào lại khiến mặt nước sinh động đến thế với những con rối tưởng chừng thật vô tri.
Tiếng nước sóng sánh, tiếng cá bơi lội, bọt nước xối lên, tan hòa giữa cỏ cây, hoa lá thực. Tất cả đã mang lại một đời sống sinh động dưới mái thủy đình, thổi hồn cho những con rối giả lướt trên mặt nước. Nước chính là nhân tố tạo nên cái “thần” của múa rối nước, là nơi bao bọc, ẩn giấu, thoắt ẩn thoắt hiện tài tình của những con rối nước.
Dẫu vậy, trong những không gian nghệ thuật của những nhà hát đậm chất Tây phương giữa lòng thành phố, cái mặt nước cùng ánh sáng tự nhiên ấy của rối nước đã mất đi. Tưởng chừng như ánh sáng nhân tạo không thể mang lại cái nét nên thơ dân dã, ấy vậy mà với sự dàn dựng tài tình, những chùm ánh sáng trắng vàng trong những nhà rối đã cùng mặt nước tạo thành bộ đôi kỳ ảo.
Trong không gian của những nhà hát múa rối hiện đại, người đạo diễn sẽ sử dụng ánh sáng trắng hoặc vàng để phản chiếu xuống nước, làm nổi bật lên nước sơn của nhưng con rối sặc sỡ. Nước sơn óng ánh phản chiếu ánh sáng lung linh và màn khói huyền ảo, khiến vở diễn càng trở nên sống động lạ kỳ.
Đặc biệt, những vở múa rối đều bắt nguồn từ những câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn. Bởi vậy mà ánh sáng lung linh đã mang tới cho những con rối một sân khấu đậm chất huyền bí, kỳ diệu nhất, toát lên đúng chất của những câu chuyện cổ trước mắt khán giả mọi lứa tuổi.
Rối nước bắt nguồn từ những trò chơi, nghệ thuật tạo hình của những người nông dân. Khi họ có nhu cầu về giải trí, họ đẽo cây và tạo ra những con rối, ban đầu với hình hài thô sơ và dần được hoàn thiện với trình độ tinh vi và nghệ thuật hơn, biến hóa chúng thành những nhân vật thú vị diễn trên mặt nước. Người nông dân “điêu khắc” những con rối, hay chạm khắc trên đình làng - mái của sân khấu múa rối nước từ đôi bàn tay thủ công, bằng tư duy và óc sáng tạo mà không qua một trường lớp đào tạo về nghệ thuật.
Không chỉ vậy, những màn trình diễn múa rối nước với việc điều khiển khéo léo và tinh tế của các nghệ nhân cũng đầy sức sáng tạo, hấp dẫn nhưng vẫn thể hiện được chất mộc mạc và giản dị của đời sống Việt Nam qua mười thế kỷ. Điều này khắc họa rõ sự tài năng của người nông dân Việt từ xưa.
Múa rối nước ra đời khi nào hiện nay vẫn là câu hỏi chưa có lời giải đáp. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hàng đầu về múa rối nước như Nguyễn Huy Hồng hay Tô Sanh đều cho rằng rối nước phát triển dưới thời Lý (1010 - 1225), đồng nghĩa rằng loại hình nghệ thuật này đã xuất hiện từ trước thế kỷ X.
Thời Lý, bia Sùng Thiện Diên Linh dựng năm 1121 thời vua Lý Nhân Tông tại chùa Đọi (Hà Nam) có ghi trò Rối cho Vua xem cho thấy nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam phát triển và đạt đến trình độ nghệ thuật cao trong thời gian này. Ba câu thơ thể hiện sự phát triển của trò rối nước có lời và động tác:
“Nàng tiên từ trên không sa xuốngCất lên tiếng hát véo vonCa ngợi công đức đầu tiên của vị vua hiền”
Ở thời Trần (đầu thế kỉ XIII), múa rối nước vẫn được phát triển mạnh mẽ không chỉ đối với người dân, trong các lễ hội mà còn đối với vua chúa. Trong cung đình, nghệ thuật múa rối nước còn được sử dụng với mục đích tiếp đón sứ giả nước ngoài.
Dưới thời nhà Hậu Lê và Tây Sơn, tuy không được sử dụng trong cung đình, Múa rối nước vẫn khẳng định vai trò và vị thế trong dân gian, trong các hội hè đình đám ở nông thôn. Múa rối nước tiếp thu các nghệ thuật Chèo, Tuồng và phát triển thêm nhiều lời ca, lời thoại.
Ở thời Nguyễn, do Tuồng được phát triển thành nghệ thuật cung đình, múa rối nước tiếp tục chỉ phát triển trong dân gian, tuy nhiên, trật tự tổ chức đã được định hình chắc chắn theo các phường, hội. Các phường, hội đẩy mạnh giao lưu, so tài với nhiều kĩ thuật tinh tế và đề cao tính chất “bí truyền” để giữ ngón nghề.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, thời điểm thực dân Pháp xâm lược, Múa rối nước bị xem thường và coi làm “trò vui, câu khách”. Tuy nhiên, Múa rối nước vẫn tồn tại, duy trì trong lòng xã hội Việt Nam, trong tư tưởng của nho sĩ yêu nước đương thời.
Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến kháng chiến chống Pháp lần 2 (1954), múa rối nước bị kẻ thù xâm lực tàn phá. Các nghệ nhân bị bắt giết, hiện vật bị phá hủy. Múa rối nước đứng rước tình trạng có nguy cơ bị mai một.
Đến năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Rối nước mới tiếp tục thực sự có một bước ngoặt mới. Tháng 3/1956, nghệ thuật sân khấu Rối chuyên nghiệp Việt Nam chính thức ra đời theo chỉ thị của Bác Hồ, khẳng định là một thể loại nghệ thuật sân khấu truyền thống. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1965 - 1975), dù rất khó khăn, múa rối vẫn không ngừng phát triển.
Múa rối hầu như dân tộc nào cũng có, còn múa rối nước là dạng nghệ thuật rối độc đáo chỉ có riêng ở Việt Nam (hình ảnh các con tem múa rối).
Năm 1979, trong Liên hoan Rối Quốc tế tổ chức ở Ba Lan, bộ môn nghệ thuật này được giới thiệu với bạn bè năm châu và nhận được sự thán phục lớn. Đến năm 1984, Nhà hát Múa rối trung ương tiếp tục gây được tiếng vang lớn khi lưu diễn thành công tại 3 quốc gia ở khu vực Tây Âu.
Từ đó đến nay, múa rối nước liên tục nhận được nhiều sự ủng hộ của khán giả trong và ngoài nước, trở thành một di sản nghệ thuật độc đáo trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam. Rối nước giành liên tiếp những giải thưởng cao quý của Liên hoan Múa rối và thường được chọn là tiết mục đinh của nhiều Festival trên thế giới. Tiêu biểu, tại Liên hoan múa rối Quốc tế lần thứ 2 vào ngày 9/9/2010 diễn ra tại Nhà hát Âu Cơ (Hà Nội), hai chương trình rối nước chào mừng Đại lễ nghìn năm Thăng Long - Hà Nội của Nhà hát múa rối Thăng Long và tiết mục chuyển thể từ truyện dân gian nước ngoài “Andersen” của Nhà hát múa rối Việt Nam đã xuất sắc giành 2 huy chương vàng.
Trải qua hàng nghìn năm tồn tại, hiện nay chỉ còn 18 phường rối nghiệp dư chủ yếu thuộc 6 tỉnh, thành phố vùng châu thổ sông Hồng: Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh. Hoạt động của các phường rối phần lớn vẫn theo hình thức phục vụ hội hè, đình đám… với thành viên là những người nông dân của làng, xã.
Trên khắp cả nước hiện nay có khoảng 23 nhà hát múa rối nước đang hoạt động. Đây là những nơi lưu giữ hàng trăm trò diễn đặc sắc và niềm đam mê lớn với loại hình nghệ thuật rối nước truyền lại qua nhiều thế hệ. Hiện nay, rối nước đang được chú trọng trong việc phục hồi, tuy nhiên vẫn chưa thực sự phổ biến đối với người dân Việt Nam hiện nay, đặc biệt là giới trẻ.
Để làm nên thành công của múa rối nước, ắt hẳn khắc ghi đậm nét trong lòng khán giả chính là hình ảnh từng con rối được tạo hình đẹp mắt, tinh xảo, lung linh trên mặt nước. Những con rối được chế tác công phu chính là yếu tố đầu tiên tạo nên thành công cho nghệ thuật rối nước Việt Nam.
Từ xưa, ông cha ta đã biết sử dụng những đồ vật hằng ngày để tạo ra các con rối, con rối để tạo ra những vở diễn mô phỏng lại câu chuyện cổ tích hoặc cuộc sống của người Việt xưa. Cũng bởi vậy mà từng nhân vật rối, dù ở thời đại nào, đều mang đậm hơi thở cuộc sống Việt, văn hóa Việt. Những người nghệ sĩ say mê sáng tạo đã thổi hồn vào những con rối, để những nhân vật trong vở diễn được hiện lên sống động nhất, chân thật nhất: từ những nhân vật trong cổ tích, những anh hùng dân tộc hay những khuôn mặt đời thường.
Về tạo hình con rối, ở Việt Nam có hai lối tạo hình là phong cách dân gian và hiện đại. Theo phong cách dân gian, sản phẩm được tạo ra chủ yếu là rối nước. Từ thuở xưa, khi múa rối nước mới ra đời người nghệ nhân tạo hình thường thấy sao làm vậy và tưởng tượng theo ý thức hệ, từ đường nét mang dáng dấp kiến trúc đình làng, chất liệu sơn vẽ, màu sắc cho đến kiến trúc đơn sơ của Thủy đình.
Nghệ thuật trong tạo hình con rối được thể hiện rất tự nhiên, mang tính kinh nghiệm, trải nghiệm chứ chưa có lý luận, khuôn mẫu nào. Những con rối cứ như tự nhiên mà ra đời, mà tồn tại, mà phát triển theo hơi thở của cộng đồng người Việt thuở xưa. Điều này cũng nói lên bản chất của nghệ thuật dân gian, nghệ thuật làng quê, là trao truyền bằng kinh nghiệm, tiếp nối theo thế hệ.
Mặc dù có rất nhiều thành phần tham gia nhưng riêng tạo hình rối nước có chung một quan điểm đó là: Tính cách nhân vật rõ nét, có chất rối (ngây ngô, ngộ nghĩnh) thích hợp với nước. Các con rối nước của Việt Nam thường có hình thức mang tính ước lệ, ngộ nghĩnh, hồn nhiên, mộc mạc. Nhân vật tiêu biểu nhất là chú Tễu với thân hình tròn trĩnh, nụ cười hóm hỉnh, lạc quan, xuất hiện với nét vui vẻ, tinh nghịch làm nhiệm vụ giáo đầu, dẫn chuyện, mở màn vở diễn.
Con rối nước được chế tác ít bị gò bó theo một khuôn mẫu, tất cả đều được làm thủ công và mỗi nhân vật là riêng biệt, mang tính chất riêng, gửi gắm hồn cốt riêng. Chúng tự nhiên, dân dã, mang tính biểu tượng, ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi truyền thống điêu khắc dân gian, nghệ thuật đình làng và cả điêu khắc cung đình.
Theo lời bác Nguyễn Văn Phi - nghệ nhân tạo hình rối nước làng Đào Thục, huyện Đông Anh, Hà Nội, một người con sinh ra và lớn lên tại làng, nuôi niềm đam mê cháy bỏng với nghề tạo hình con rối cho biết: “Rối nước là nghệ thuật dân gian, sinh ra bởi bàn tay con người, nên sẽ có tròn có méo, không có gì là hoàn hảo theo khuôn mẫu, nhưng phải có vậy thì mới trân quý từng quân rối được làm ra. Con rối chính là khối sống, khối cử động được, còn tượng đơn thuần là khối chết, có khuôn mẫu nhân vật”.
Màu sắc của rối với các màu đỏ, hồng, vàng, đen… gợi cảm giác vui vẻ, ấm áp của thiên nhiên tươi đẹp và văn hóa tôn giáo ở nông thôn Việt Nam với các màu đỏ, hồng, vàng, đen… Trang phục các con rối lột tả khá rõ nét thân phận, đẳng cấp như: vua quan, lính tráng. Cho đến nét mộc mạc, giản đơn, đôi khi là nhuốm màu cũ kỹ, sờn rách của thời gian trong trang phục của nông phu, người lao động (kéo lưới, chèo thuyền đua, đi cày, câu cá, chăn trâu…).
Chất liệu làm ra các con rối là gỗ sung. Theo lời của bác Nguyễn Văn Phi - nghệ nhân tạo hình rối nước làng Đào Thục, gỗ sung được chọn ở đây vì hai lý do. Thứ nhất, đó là loại gỗ nhẹ và chống thấm nước, phù hợp để các con rối ngâm lâu dưới nước. Thứ hai, “sung” ở đây ông cha ta còn gửi gắm ước mong một cuộc sống sung túc, đủ đầy.
Mỗi con rối sẽ có hai phần chính, là các bộ phận trên cơ thể tách rời (tay, chân, đầu,...) và phần các khớp hay động cơ để giúp con rối chuyển động. Các nhân vật rối đều được khắc quần áo bó sát người, khoác lên mình những bộ trang phục bằng chất liệu sơn mài truyền thống của Việt Nam. Khuôn mặt và cơ thể con rối tả người lao động bình dân đều tươi vui, béo tốt, hồn nhiên, đậm chất hài. Rối tầng lớp trên và con lính nghiêm trang hơn, đôi khi ít nét tươi tắn, sinh động.
Tuy nhiên, mỗi nhân vật rối sẽ không con nào giống con nào, nhiều khi nghệ nhân trong quá trình sản xuất chưa đúng theo yêu cầu ban đầu thì vẫn có thể dùng tiếp cho những nhân vật khác, “không có khái niệm hỏng, không có gì là bỏ đi. Mỗi con rối, mỗi nhân vật đều mang một linh hồn”, theo lời Bác Phi trưởng xưởng sản xuất rối nước làng Đào Thục.
Đa phần kích thước con rối nước không to, chỉ khoảng 30cm-70cm. Tạo hình con rối nước đều theo chuẩn ước lệ “Chân - Thiện - Mỹ” của cha ông xưa như: nữ thì mặt trái xoan, thắt đáy lưng ong, nam mặt vuông chữ điền, răng đen...
Các tuyến nhân vật múa rối nước đa dạng theo các chủ đề bao quát mọi lĩnh vực cuộc sống đến đời sống tâm linh như thần linh (bát tiên), linh vật (long, ly, quy, phượng), anh hùng dân tộc và các con người, vật thường ngày của làng quê Việt Nam xưa (con trâu, con gà, nông cụ).
Một điều hết sức đặc biệt nữa về tạo hình con rối là tính linh hoạt của nghệ nhân. Đôi khi họ phải tự mình thay đổi các chi tiết nhân vật theo từng kịch bản, từng địa bàn, từng đối tượng khán giả sao cho có một tạo hình phù hợp nhất. Người nghệ nhân phải có những sáng tạo nhạy bén theo thời đại và hoàn cảnh.
Các công đoạn làm nên con rối nước truyền thống là một hệ thống công việc phức tạp, công phu, tỉ mỉ, đòi hỏi sự khéo léo, kiên trì. Để có một con rối nước hoàn chỉnh phải qua những công đoạn sau:
Thông thường, để hoàn thành một bộ rối nước (16 trò) phải mất khoảng 4 đến 5 tháng, chưa kể thời tiết ẩm thời gian để con rối khô còn kéo dài hơn.
Tạo hình và chế tác con rối là quá trình hoạt động nghệ thuật nghiêm túc và sáng tạo nhằm thể hiện tính cách nhân vật. Kết quả lao động sáng tạo của nghệ nhân là những con rối đẹp mộc mạc về hình thức bên ngoài nhưng có khả năng biểu hiện đời sống tinh thần một cách phong phú, sinh động. Các con rối phải có thần sắc.
Nội dung của vở diễn, tính chất của sàn diễn (mặt nước thủy đình) sẽ quyết định hình thức và cách vận động của các con rối. Với nhiều mục đích như truyền thông, giải trí, giao tiếp xã hội và giáo dục, các con rối nước được tạo dáng phù hợp với các nhân vật, gần gũi với đời sống dân dã, phù hợp khả năng nhận thức, tình cảm của mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp…
Đó có thể là cách làm ruộng, đánh cá, xay lúa, giã gạo, chăn vịt, dệt cửi, đấu vật, đưa ngựa, đánh đu, leo cây, múa lân, múa rồng, đánh kiếm, còn là những nhân vật anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo… Các nhân vô cùng đa dạng: bật cờ, chú tễu, múa rồng, em bé chăn trâu, cày cấy, bắt vịt, đánh cá, vinh quy bái tổ/rước trạng, múa sư tử, múa phượng, Lê Lợi trả gươm, nhi đồng vui chơi, đua thuyền múa lân, múa tiên, tứ linh…